Sau 65 năm, du lịch Việt Nam từ “số 0” đã trở thành một trong những điểm đến đông khách nhất khu vực, chỉ sau Thái Lan và Malaysia.

Trên hình: Du khách quốc tế ngồi xích lô tham quan thành phố Huế. Ảnh: Võ Thạnh
“Những năm 1970, khách Tây ở Hà Nội ít lắm, không như bây giờ ra ngõ là gặp”, bà Vũ Thị Khiêm, nguyên Trưởng phòng Nghiệp vụ của Tổng công ty Du lịch Hà Nội (Hanoitourist), nhớ lại. Bà Khiêm bắt đầu làm tại Hanoitourist từ năm 1972, được giao nhiệm vụ thử và kiểm định chất lượng món ăn trước khi mang lên phục vụ các đoàn khách quốc tế của Chính phủ những năm bao cấp. Thời kỳ này, khách nội địa du lịch trong nước “còn ít nữa là khách quốc tế”.
Sau 65 năm thành lập và phát triển, hiện tại, du lịch Việt vượt qua Singapore, vào top 3 điểm đến hút khách nhất Đông Nam Á, sau Thái Lan và Malaysia, khi đón 17,6 triệu lượt khách vào năm 2024.
Du lịch Việt từ ‘số 0’ đến top 3 khu vực
Những ngày đầu đón khách
Ngày 9/7/1960 đánh dấu bước khởi đầu của du lịch Việt, khi Công ty Du lịch Việt Nam được thành lập. Khi đó, đất nước còn chia cắt, chức năng chủ yếu của ngành là phục vụ các đoàn khách quốc tế, chuyên gia, theo Cục Du lịch Quốc gia.
Sau khi hòa bình lập lại vào năm 1975, Việt Nam bước vào thời kỳ Đổi mới (1986), du lịch vẫn chưa phát triển, chính sách đón khách quốc tế còn nhiều hạn chế.
Ông Nguyễn Quốc Kỳ, hiện là Chủ tịch HĐQT Vietravel, làm tại Công ty Du lịch TP HCM (Saigontourist) vào những năm 1980, cho biết khi đó du khách hầu như không thể đi tự túc, mà phải thông qua các công ty lữ hành quốc doanh như Saigontourist, Hanoitourist. Khách muốn đến phải có thư mời, xin thị thực qua cơ quan đại diện ngoại giao, hành trình thường được sắp xếp sẵn, ít linh hoạt.
Khó khăn lớn nhất của ngành du lịch Việt Nam vào thời điểm Đổi mới là bài toán tìm kiếm nguồn khách. Thị trường gần như chỉ trông vào khách Đông Âu. Các thế hệ đầu tiên của trong ngành đã phải trăn trở, tìm cách mở cánh cửa mới như tham dự các hội chợ du lịch tại Thái Lan nhằm quảng bá và thu hút khách.

Ông Alain Tấn Huynh, 72 tuổi, người Mỹ gốc Việt, về Hà Nội vào tháng 4/1989 cho biết nếu không có giấy phép đi lại do Chính phủ cấp, ông không thể đặt khách sạn.
“Mọi chuyến bay từ Mỹ về Việt Nam khi đó đều phải qua Thái Lan xin visa rời”, ông nói. Trong khi đó, Du lịch Thái Lan lúc này “đã rất phát triển”, với dịch vụ lưu trú, ăn uống đủ tiêu chuẩn phục vụ khách quốc tế.
Đến Hà Nội, điều đầu tiên ông Tấn làm là tìm một tô phở, nhưng thành phố khi ấy chỉ phổ biến phở gà. Cà phê cũng khan hiếm và chỉ bán trong khách sạn. Cửa hàng trên phố chủ yếu bán nước chè và kẹo lạc.

Mark Bowyer, người Australia, lần đầu đưa 12 khách nước ngoài đến Việt Nam vào năm 1993. Mark nhớ lại đường sá tại Việt Nam thời kỳ này “rất tệ”, khách sạn của họ ở Quảng Ngãi còn chưa hoàn thiện. Tuy nhiên, Mark không nghe lời phàn nàn nào từ khách. Họ đều nghĩ đó là một cái giá rất nhỏ để được trải nghiệm Việt Nam vào thời điểm đặc biệt như thế.
Theo ông Kỳ, những năm này hệ thống lưu trú cũng chưa phát triển, số khách sạn đạt chuẩn để phục vụ khách quốc tế “chỉ đếm trên đầu ngón tay”, tập trung tại Hà Nội, TP HCM và thêm vài thành phố lớn như Huế, Đà Nẵng, Nha Trang. Những cái tên quen thuộc có thể kể đến là khách sạn Rex, Majestic, Caravelle (TP.HCM), Metropole, khách sạn Thắng Lợi (Hà Nội).

Năm 1994, Mỹ tuyên bố dỡ bỏ cấm vận với Việt Nam, mở ra chương mới cho ngành du lịch. Đây cũng là thời điểm Việt Nam hội nhập nhanh chóng với thế giới khi liên tiếp tham gia các khối như ASEAN, APEC, WTO. Nguyên vụ trưởng ASEAN Đỗ Ngọc Sơn cho biết du lịch Việt Nam có hai lợi thế lớn khi gia nhập. Thứ nhất, nhờ cơ chế miễn visa trong khối, khách dễ dàng nhập cảnh Việt Nam hơn. Thứ hai, Việt Nam là nước gia nhập sau, người dân các nước khác trong khối tò mò về điểm đến mới này, vì thế cũng đổ xô đến.

Theo Cục du lịch Quốc gia, lượng khách quốc tế đến Việt Nam năm 1990 đạt 250.000 lượt, chủ yếu là khách công vụ. Năm 1995, năm đầu tiên sau khi dỡ bỏ cấm vận, Việt Nam đón 1,35 triệu lượt khách quốc tế, tăng gấp 5 lần so với 5 năm trước.
Về hàng không, Việt Nam thời kỳ này vẫn chưa có nhiều đường bay thẳng kết nối với các điểm đến trên thế giới. Cuối năm 2003, Việt Nam ký hiệp định hàng không với Mỹ. Tuy nhiên, phải mất gần 20 năm, đến 2021, Việt Nam mới mở được đường bay thẳng (bay thương mại) từ Việt Nam đến Mỹ, chặng TP HCM – San Francisco, nguyên nhân do rào cản pháp lý và chi phí khai thác cao.
Tháng 2/2019, Cục hàng không Liên bang Mỹ (FAA) cấp chứng chỉ giám sát an toàn hàng không cho Cục Hàng không Việt Nam. Với chứng chỉ này, các hãng hàng không trong nước chưa thể mở ngay đường bay thẳng nhưng có thể hợp tác liên danh với các hãng bay lớn của nước ngoài đang thực hiện nay thẳng đến Mỹ, mở ra cơ hội mới cho du lịch Việt.
Hơn 20 năm sau khi được bỏ cấm vận, ngành du lịch Việt mới bắt đầu hưởng thành quả từ các nỗ lực ngoại giao, mở cửa và đổi mới trong chính sách hút khách. 2016 là năm đánh dấu bước ngoặt mới, khi Việt Nam lần đầu đón lượng khách quốc tế đạt hai con số, với 10 triệu lượt khách.

Lên đỉnh cao rồi về lại ‘số 0’
Du lịch Việt bước vào thời kỳ hoàng kim năm 2019, đón kỷ lục 18 triệu lượt khách quốc tế và doanh thu đóng góp hơn 9% vào GDP. Tốc độ tăng trưởng bình quân khách quốc tế của Việt Nam đạt 22,7%, được Tổ chức Du lịch Thế giới xếp vào nhóm các quốc gia có tăng trưởng cao.

Tuy nhiên, đà tăng trưởng của ngành du lịch đã bị chặn đứng bởi đại dịch Covid-19. Việc thế giới đóng cửa biên giới đã khiến lượng khách sụt giảm nghiêm trọng, đẩy ngành du lịch từ thời kỳ hoàng kim trở về “số 0”.
Dù Việt Nam đã mở cửa trở lại để đón khách quốc tế từ ngày 15/3/2022, sự phục hồi trong năm đó vẫn rất hạn chế do nhiều thị trường nguồn quan trọng, trong đó có Trung Quốc, vẫn duy trì chính sách đóng cửa biên giới.

Phục hồi và thách thức
Từ năm 2022, Chính phủ liên tục đưa ra các chính sách nới lỏng visa, cấp e-visa cho các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Đến nay, Việt Nam nâng quốc gia miễn thị thực đơn phương lên 24, chủ yếu là các nước châu Âu và top thị trường gửi khách lớn đến Việt Nam như Nga, Hàn Quốc, Nhật Bản.
Viện trưởng Phát triển Du lịch châu Á Phạm Hải Quỳnh đánh giá từ 2023, du lịch Việt đã “nhanh chóng lấy lại đà tăng trưởng và có những thành quả ấn tượng”, một phần nhờ chính sách thị thực cởi mở, nhiều lễ hội, sự kiện được tổ chức, thu hút du khách.
Cuối năm 2024, ngành du lịch Việt đón 17,6 triệu lượt khách quốc tế, là quốc gia có tỷ lệ phục hồi du lịch năm 2024 tốt nhất Đông Nam Á, với mức phục hồi đạt 98%. Việt Nam cũng đứng top 3 điểm đến hút khách nhất Đông Nam Á năm 2024, sau Malaysia với 38 triệu lượt khách, Thái Lan với 35,5 triệu.

Càng ngày hình ảnh Việt Nam được nhiều du khách quốc tế biết đến hơn. Người nổi tiếng, các tỷ phú cũng bắt đầu chọn Việt Nam là điểm đến cho các chuyến du lịch, nghỉ dưỡng và tổ chức đám cưới. Những người nổi tiếng từng đặt chân đến Việt Nam phải kể đến tỷ phú Mỹ Bill Gates, tỷ phú Anh Joe Lewis, ông chủ Facebook Mark Zuckerberg.
Ngành du lịch và các điểm đến tại Việt Nam cũng bắt đầu nhận “mưa” giải thưởng từ các tổ chức uy tín trên thế giới như Tripadvisor, Sky Trax. Năm 2024, Việt Nam dành 48 giải thưởng trong khuôn khổ World Travel Awards.
Tại hội nghị tổng kết công tác năm 2024 của Bộ VHTTDL, Thủ tướng Phạm Minh Chính đánh giá lĩnh vực du lịch là điểm sáng trong bức tranh phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, khi hoàn thành chỉ tiêu đón 17,6 triệu lượt khách quốc tế, tổng thu du lịch đạt 840.000 tỷ đồng.
8 tháng đầu năm nay, khách quốc tế đến Việt Nam đạt gần 14 triệu người, tăng gần 22% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn lượng khách quốc tế cả năm 2017 (12,9 triệu lượt).

Theo ông Quỳnh, Việt Nam có ba yếu tố quan trọng gồm thiên nhiên, lịch sử và văn hóa để hút khách quốc tế. Việt Nam cũng đầu tư mạnh vào hệ thống giao thông và cơ sở vật chất, nhiều tuyến đường cao tốc, sân bay, cảng biển được xây dựng giúp việc di chuyển dễ dàng hơn. Hệ thống khách sạn, resort chất lượng cao phát triển nhanh chóng, đáp ứng nhu cầu của mọi phân khúc khách hàng.
Theo Phó giáo sư, Tiến sĩ Phạm Trương Hoàng, Trưởng khoa Du lịch và Khách sạn, Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, năm 2025, ngành du lịch đã thực sự trở lại đường đua của những ngành kinh tế quan trọng nhất tại Việt Nam. Nếu duy trì tốc độ tăng trưởng đón khách quốc tế ở mức 20% của năm 2024, đến năm 2030 ngành có thể đón hơn 60 triệu lượt khách, vượt xa con số 50 triệu lượt trong Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn 2020-2030, bất chấp đại dịch đã kéo lùi 3-4 năm tăng trưởng.
Tuy nhiên, ông Hoàng đánh giá ngành du lịch hiện nay giống như “chiếc lò xo được tháo nén”. Do đó, để có thể tăng trưởng bền vững, ngành du lịch cần có những đánh giá, nghiên cứu về thành quả này để tìm kiếm những động lực tăng trưởng mới, bên cạnh số lượng khách quốc tế, như tiềm năng du lịch, năng lực kinh doanh, quản lý du lịch, quảng bá điểm đến.
Trong báo cáo về Chỉ số Phát triển Du lịch và Lữ hành (TTDI) của Việt Nam do Diễn đàn Kinh tế Thế giới công bố năm 2024, Việt Nam yếu nhất về chỉ số Ảnh hưởng kinh tế – xã hội của du lịch khi đứng thứ 115 trên 119 quốc gia, vùng lãnh thổ. Chỉ số này gồm 4 nội dung: đóng góp của Du lịch vào GDP và việc làm; tính bao trùm xã hội (mọi người cùng được hưởng lợi từ du lịch); phân bổ lợi ích kinh tế và ảnh hưởng đến phát triển bền vững.
Hai hạng mục khác Việt Nam cũng xếp thứ hạng thấp là Ưu tiên phát triển Du lịch (98/119) và Dịch vụ du lịch, cơ sở hạ tầng (80/119). Do đó, muốn ngành du lịch phát triển bền vững và mạnh mẽ, Việt Nam cần đưa ra các giải pháp để làm tăng thứ hạng của các hạng mục trên.

Ông Phạm Hải Quỳnh cho rằng lỗ hổng lớn nhất của du lịch Việt hiện nay là chất lượng dịch vụ chưa đồng đều, tính chuyên nghiệp chưa cao. Để vá được lỗ hổng này, ngành cần đầu tư vào đào tạo chuyên sâu cho đội ngũ nhân viên, hướng dẫn viên và quản lý; khuyến khích các trường đào tạo du lịch hợp tác với các doanh nghiệp để cung cấp các chương trình đào tạo bám sát thực tế.
Là người theo dõi du lịch Việt 35 năm nay, Mark Bowyer chỉ ra ngành đã thay đổi và phát triển rất nhiều. Tuy nhiên, mặt trái của quá trình phát triển chính là tình trạng quá tải xây dựng, du lịch đại trà, làm suy giảm cảnh quan tự nhiên và những thứ giản dị vốn tạo nên sức hút riêng biệt của Việt Nam. Không ít điểm đến như Sa Pa, Phú Quốc hay một số vùng ven biển đang bị “bóp nghẹt” bởi các khu nghỉ dưỡng khổng lồ, khiến du khách mất đi cơ hội trải nghiệm nhịp sống chậm rãi, gần gũi cùng cộng đồng địa phương.

Việt Nam cần cân bằng giữa phát triển hạ tầng hiện đại với việc giữ gìn “hồn cốt” của điểm đến. “Nếu không, những giá trị tạo nên sự khác biệt – cảnh sắc nguyên sơ, văn hóa đặc sắc và trải nghiệm bản địa – có nguy cơ bị chính ngành công nghiệp du lịch làm lu mờ”, Mark Bowyer nói.
Phương Anh/Vnexpress