Một người dân địa phương ở Kyoto trên các điểm tham quan lịch sử của cố đô: Mihoko Iida hồi tưởng về thành phố mà cô biết khi còn nhỏ và tiết lộ cố đô vẫn đậm đà lịch sử như thế nào hơn bao giờ hết – từ những nhà trọ nhiều tầng và quán cà phê truyền thống cho đến sự tôn trọng sâu sắc đối với nghề thủ công và nghi lễ.
Kyoto là nơi bà tôi sống. Cha mẹ tôi và tôi thường đi tàu cao tốc Shinkansen từ Tokyo, đến ga Kyoto hai giờ sau đó, từ đó chúng tôi bắt taxi dọc theo Kamogawa, con sông chảy từ bắc xuống nam qua trung tâm thành phố. Con phố có tên Kawabata Dori chạy dọc theo đó. Trong một thời gian dài, tôi đã nghĩ nó được đặt theo tên của nhà văn đoạt giải Nobel Yasunari Kawabata, người đã ở tại ryokan Hiiragiya (nhà trọ truyền thống của Nhật Bản) và viết nên những kiệt tác như cuốn tiểu thuyết The Old Capital năm 1962, lấy bối cảnh ở Kyoto. Nhiều năm sau, tôi cười thầm khi phát hiện ra con phố này không có mối liên hệ nào với tiểu thuyết gia và được gọi là Kawabata vì kawa có nghĩa là ‘sông’ và bata có nghĩa là ‘bờ’, khiến tên phố chỉ đơn giản là Bờ sông.
Tôi nghĩ đến điều này khi mọi người hỏi tôi Kyoto thực sự như thế nào, vì chúng ta rất dễ bị cuốn theo những tưởng tượng mà chúng ta phóng chiếu lên một thành phố gợi lên trí tưởng tượng không giống ai. Điều này chủ yếu là do lịch sử của nó là cố đô của Nhật Bản – nơi Triều đình đặt trụ sở trong hơn 1.000 năm cho đến năm 1868, khi Nhật Bản mở cửa biên giới cho những ảnh hưởng từ nước ngoài. Và, không giống như Tokyo, Osaka hay bất kỳ thành phố lớn nào khác, Kyoto đã thoát khỏi những vụ đánh bom khốc liệt trong Thế chiến thứ hai. Kết quả là, đường phố, nhà cửa, đền chùa và ryokan ở đây vẫn giữ được nét quyến rũ của thế giới cổ xưa.
Thành phố này luôn thu hút những sản phẩm nghệ thuật và thủ công tốt nhất của Nhật Bản. Bằng chứng về điều này có thể được nhìn thấy tại Bảo tàng Quốc gia Kyoto và Bảo tàng Raku thích hợp hơn, nơi trưng bày đồ gốm được sử dụng cho các nghi lễ trà đạo, và Trung tâm Dệt may Nishijin, dành riêng cho việc may kimono. Nghề thủ công đã duy trì qua nhiều thế hệ vẫn còn tồn tại trong các cửa hàng như Yamahon, nơi có rất nhiều đồ gốm, đồ dùng và đồ trang trí tuyệt đẹp. Ngay cả những thứ thiết yếu như chổi cũng được làm thủ công với niềm tự hào tại Naito Shoten, nơi đã hoạt động từ năm 1818. Các khu chợ và khu mua sắm là huyết mạch của đời sống địa phương và một số đã hoạt động hơn 400 năm: Nishiki, Shijo Kawaramachi và Demachi Yanagi vẫn là một trong những nơi tốt nhất cho mọi thứ, từ thức ăn đường phố đến đồ gia dụng. Cửa hàng bánh kẹo Murakami Kaishindo mở cửa hàng trên Teramachi Dori vào năm 1907 và trở thành một trong những cửa hàng đầu tiên ở Nhật Bản sản xuất và bán đồ ngọt theo phong cách châu Âu. Nó nằm trên cùng con phố với cửa hàng hàng đầu của Trà Ippodo, đã hoạt động được hơn 300 năm.
Phần lớn cuộc sống ở đây diễn ra tại những Kissatens – những quán cà phê truyền thống được mô phỏng theo những quán cà phê ở Châu Âu, nơi người dân địa phương tụ tập để trò chuyện, đọc sách hoặc nghiền ngẫm truyện tranh manga. Bước vào một vài nơi hôn nhau khác nhau và mỗi lần bạn sẽ trải nghiệm một bầu không khí mới. Một số, chẳng hạn như Salon de le François, được mô phỏng theo các quán cà phê cổ điển của Pháp, trong khi một số khác gợi lên những phòng trà hoài cổ, chẳng hạn như Cà phê Inoda, nơi những người phục vụ mặc vest trắng và thắt nơ đen đi lại giữa các bàn. Inoda được thành lập vào năm 1940 và đã hoàn thiện nghệ thuật phục vụ cà phê với sữa và đường đã được thêm vào – ngày nay được gọi là ‘Kyoto latte’.
Sự lịch sự tinh tế khi cho bạn biết khi nào bạn không được chào đón là một kỹ năng khác được người dân Kyoto nổi tiếng. Ai cũng biết rằng một người mời bạn ở lại uống trà nghĩa là bạn phải đi đây. Tôi luôn giải thích nó có nghĩa là người ta nên chú ý không gây rắc rối cho ai đó, đó là một chủ đề nhất quán xác định mọi tương tác ở Nhật Bản – đặc biệt là ở Kyoto. Không phải ngẫu nhiên mà, với tư cách là một gia đình, chúng tôi luôn ở nhà trọ thay vì ở nhà bà ngoại trong kỳ nghỉ Tết.
Trải nghiệm ryokan không chỉ là cởi giày ở lối vào hay thay yukata – một phiên bản bình thường của kimono mà bạn có thể mặc vào. Tại ryokan, bữa ăn sẽ được chuyển đến tận phòng của bạn vào một thời điểm nhất định; bạn phải ăn xong trong một khoảng thời gian cụ thể; nhà tắm chung chỉ được cung cấp vào những thời điểm nhất định; và có thể có giờ giới nghiêm vì chủ quán phải khóa cửa qua đêm. Tôi đã bị đánh thức đột ngột vào sáng sớm vô số lần bởi nhân viên nhà trọ nói với tôi rằng họ cần mang bữa sáng vào. Tôi thường hầu như không tỉnh táo, chưa nói đến việc chuẩn bị tiêu hóa bữa sáng đầy đủ kiểu Nhật, với súp miso và cơm, nhưng nó đi kèm với lãnh thổ.
So sánh ryokan với khách sạn cũng giống như so sánh táo và cam. Đối với nhiều người, ryokan là điểm thu hút chính khi đến thăm Kyoto và lịch sử về cách những nhà trọ này hình thành như hiện tại sẽ giúp họ hiểu rõ hơn về chúng. Người ta cho rằng chúng có nguồn gốc từ thời Edo, khi các lãnh chúa phong kiến (samurai cấp cao) được yêu cầu di chuyển thường xuyên giữa Edo (nay là Tokyo) và các thái ấp tương ứng của họ. Thực tiễn này, được cho là đã tăng cường quyền lực trung tâm của chính quyền quân sự ở Edo bằng cách làm cạn kiệt nguồn tài nguyên của các lãnh chúa phong kiến, mở đường cho đường sá và chỗ ở. Các lãnh chúa đi du lịch hàng loạt, theo nhóm từ 100 đến vài nghìn người, tất cả đều cần thức ăn và chỗ ở.
Thông thường, các chức sắc địa phương hoặc các thương gia giàu có đã cung cấp dịch vụ cho các samurai cấp cao và đây là điều thường được cho là nền tảng của hệ thống ryokan. Hiiragiya ryokan, có thể là đẹp nhất ở Kyoto, khởi đầu là một doanh nghiệp vận tải và vận chuyển hải sản, được thành lập bởi Shogoro I, người gốc Fukui, một quận ở phía đông bắc. Người chủ thế hệ thứ hai của gia đình đã trở thành một nghệ nhân nổi tiếng về tsuba-menuki (những thanh kiếm được trang trí bởi các samurai) và gia đình đã tiếp đón những vị khách samurai của ông. Điều này đã mở đường cho ryokan Hiiragiya, nơi tiếp tục đón tiếp các quan chức từ khắp nơi trên thế giới ngày nay đến chiêm ngưỡng trần nhà bằng sậy, dầm đánh bóng, tấm ranma được chạm khắc bằng tay – cho phép ánh sáng và không khí lưu thông – và cửa sổ shoji dán giấy của nhà trọ này tạo khung cảnh cho khu vườn.
Tác giả Yumi Yamaguchi giải thích rằng ryokan thường gắn liền với khái niệm omotenashi hay “để giải trí hết lòng” – mà không mong đợi được đáp lại bất cứ điều gì. Như vậy, ryokan vượt xa dịch vụ mong đợi ở các khách sạn phương Tây, nơi mối quan hệ giữa khách sạn và khách hàng chỉ mang tính giao dịch. Omotenashi đã trở thành một từ thông dụng vào năm 2013 khi Tokyo đang đấu thầu để đăng cai Thế vận hội 2020 và cách giải thích thuật ngữ này tiếp tục khác nhau. Tuy nhiên, suy cho cùng, nó thực sự là về mong muốn chung về sự kết nối giữa con người với nhau. Trong một thế giới luôn thay đổi, nơi các dịch vụ ngày càng được AI chiếm lĩnh và sự tương tác cá nhân dường như không còn nữa, việc được thông báo khi nào bữa tối được phục vụ và bữa sáng được mang đến phòng của bạn trong khoảng thời gian từ 7h30 đến 8h30 thực sự có thể là điều lớn nhất xa xỉ của tất cả.
Theo: houseandgarden
Bạn có thể tham khảo thêm những chương trình Tour du lịch Nhật Bản của công ty du lịch META nhé.